Khóc

Ở tất cả trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ khóc như một hình thức giao tiếp; đó là phương thức duy nhất trẻ có thể thể hiện khi cần. Hầu hết khóc là biểu hiện đòi hỏi khi đói, khó chịu (ví dụ như tã ướt), hoặc chia cắt, và nó chấm dứt khi được đáp ứng các nhu cầu (ví dụ như ăn, thay bỉm, âu yếm).

Ho ở trẻ em

Ho là một phản xạ giúp tống các chất dịch trong đường thở ra ngoài, làm sạch đường thở, bảo vệ đường thở khỏi các dị vật xâm nhập, và có thể là triệu chứng của bệnh. Ho là một trong những triệu chứng thường gặp nhất khiến cha mẹ đưa con mình tới cơ sở y tế.

Điều trị bằng thuốc kháng vi-rút ở trẻ em

Có hơn 30 mươi loại thuốc kháng virut (ARV), bao gồm các sản phẩm kết hợp đa dạng, có sẵn ở Hoa Kỳ, mỗi loại có thể có tác dụng phụ và tương tác thuốc với các thuốc ARV khác hoặc các thuốc thường được sử dụng như kháng sinh, thuốc chống co giật, và thuốc an thần. Các thuốc ARV mới, thuốc điều hòa miễn dịch và văcxin đang được đánh giá.

Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ

Nhiễm virut gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) là do retrovirus HIV-1 (và ít phổ biến hơn là do retrovirus HIV-2). Nhiễm trùng dẫn đến suy giảm miễn dịch tiến triển, nhiễm trùng cơ hội và ung thư. Giai đoạn cuối là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Chẩn đoán bằng phát hiện các kháng thể virus ở trẻ em > 18 tháng và xét nghiệm khuếch đại acid nucleic của virus (như PCR) ở trẻ em < 18 tháng. Điều trị bằng kết hợp các thuốc kháng virus.

Điều trị nhiễm HIV bằng thuốc kháng vi rút

Do các biến chứng liên quan đến bệnh có thể xảy ra ở những bệnh nhân không được điều trị có số lượng CD4 cao và do các loại thuốc ít độc hại hơn đã được phát triển nên việc điều trị bằng liệu pháp kháng vi rút (ARV) hiện được khuyến nghị cho tất cả bệnh nhân. Lợi ích của ART cao hơn là rủi ro trong mỗi nhóm bệnh nhân và các phác đồ đã được nghiên cứu cẩn thận.

Nhiễm trùng HIV/AIDS ở người

Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) là hậu quả của nhiễm 1 trong số 2 retrovirus tương tự nhau (HIV-1 và HIV-2) chúng phá hủy tế bào lympho CD4+ và làm giảm khả năng miễn dịch qua trung gian tế bào, tăng nguy cơ nhiễm trùng và ung thư.

Suy giảm nhận thức do mạch máu và sa sút trí tuệ

Suy giảm nhận thức do mạch máu và sa sút trí tuệ là tình trạng suy giảm nhận thức cấp tính hoặc mạn tính do nhồi máu não cục bộ hoặc nhồi máu não lan tỏa thường liên quan đến bệnh mạch máu não.

Não úng thủy áp suất bình thường

Não úng thủy áp lực bình thường được đặc trưng bởi rối loạn dáng đi, tiểu không tự chủ, sa sút trí tuệ, giãn não thất, và áp lực dịch não bình thường hoặc tăng nhẹ.

Sa sút trí tuệ thùy trán-thái dương (FTD)

Sa sút trí tuệ thùy trán thái dương (FTD) đề cập đến các rối loạn tản phát và di truyền ảnh hưởng đến thùy trán và thùy thái dương, bao gồm cả bệnh Pick.

Sa sút trí tuệ với thể Lewy và bệnh Parkinson

Sa sút trí tuệ thể Lewy bao gồm chứng sa sút trí tuệ được chẩn đoán lâm sàng với thể Lewy và sa sút trí tuệ do bệnh Parkinson. Sa sút trí tuệ với thể Lewy là sự suy giảm nhận thức mạn tính đặc trưng bởi các thể vùi trong tế bào được gọi là thể Lewy trong bào tương của tế bào thần kinh vỏ não. Sa sút trí tuệ do bệnh Parkinson là suy giảm nhận thức được đặc trưng bởi các thể Lewy trong liềm đen; nó phát triển muộn trong bệnh Parkinson.

Các triệu chứng hành vi và tâm lý của sa sút trí tuệ

Hành động bộc phát thường gặp ở các bệnh nhân sa sút trí tuệ và là lý do chính đối với 50% số lần vào trại điều dưỡng. Hành động bộc phát bao gồm đi lang thang, bồn chồn, la hét, ném, đánh, từ chối điều trị, không ngừng hỏi, cản trở công việc của nhân viên, mất ngủ, và khóc. Các triệu chứng hành vi và tâm thần của sa sút trí tuệ chưa được mô tả kỹ, và cách điều trị chúng không được hiểu rõ.
Subscribe to Trang chủ