Áp xe

Áp xe là vị trí tập trung mủ được giới hạn trong các mô, thường là do nhiễm khuẩn. Các triệu chứng bao gồm đau khu trú, mềm, sưng (nếu áp xe gần lớp da) hoặc các triệu chứng cơ quan (nếu áp xe sâu). Chẩn đoán hình ảnh thường rất cần thiết cho chẩn đoán áp xe sâu. Điều trị bằng phẫu thuật dẫn lưu hoặc chọc hút bằng kim qua da và thường dùng kháng sinh.

Sốt không rõ nguồn gốc (FUO)

Sốt không rõ nguyên nhân (FUO) khi nhiệt độ cơ thể ≥ 38,3° C (≥ 101° F) đo tại trực tràng, không phải do bệnh thoáng qua và tự hạn khỏi, bệnh nhanh chóng gây tử vong hoặc rối loạn với các triệu chứng hoặc dấu hiệu cục bộ rõ ràng hoặc có bất thường trên các xét nghiệm thông thường như chụp X-quang phổi, xét nghiệm nước tiểu hoặc cấy máu.

Sốt

Sốt là tình trạng nhiệt độ cơ thể tăng cao xảy ra khi bộ điều nhiệt của cơ thể (nằm ở vùng dưới đồi) đặt lại ở nhiệt độ cao hơn, chủ yếu để phản ứng với tình trạng nhiễm trùng. Nhiệt độ cơ thể tăng không phải do đặt lại nhiệt độ được gọi là tăng thân nhiệt.

Biểu hiện của nhiễm trùng

Các triệu chứng của nhiễm trùng có thể là cục bộ (ví dụ, viêm mô tế bào, áp xe) hoặc toàn thân (thường là sốt). Biểu hiện có thể tiến triển tổn thương nhiều hệ cơ quan. Nhiễm trùng nghiêm trọng, rộng có thể có biểu hiện đe dọa tính mạng (ví dụ, nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn). Hầu hết các triệu chứng đều được giải quyết khi điều trị thành công nhiễm trùng.

Ung thư tuyến giáp

Có 4 loại ung thư tuyến giáp nói chung. Hầu hết các bệnh ung thư tuyến giáp biểu hiện như nhân giáp không triệu chứng. Hiếm khi, di căn hạch bạch huyết, phổi, hoặc xương gây ra triệu chứng trong ung thư tuyến giáp. Chẩn đoán thường bằng sinh thiết kim nhỏ nhưng có thể liên quan đến các xét nghiệm khác. Điều trị là phẫu thuật loại bỏ, thường loại bỏ mô giáp tồn dư bằng iốt phóng xạ sau phẫu thuật.

Bướu giáp đơn thuần (Euthyroid Goiter)

Bướu giáp đơn thuần có thể lan hỏa hoặc có nhân, là tình trạng tuyến giáp to không phải ung thư, không có cường giáp, suy giáp hoặc viêm. Trừ trường hợp thiếu hụt iốt nặng, chức năng tuyến giáp bình thường và bệnh nhân không có triệu chứng, ngoại trừ tuyến giáp tăng kích thước rõ, ko đau. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và xác định chức năng tuyến giáp bình thường. Điều trị dựa vào nguyên nhân, nhưng phẫu thuật cắt tuyến giáp bán phần là cần thiết nếu bướu giáp quá lớn.

Hội chứng suy giáp không do bệnh tuyến giáp

Hội chứng bệnh tuyến giáp là tình trạng trong đó nồng độ hormone tuyến giáp trong huyết thanh thấp ở những bệnh nhân bị bệnh toàn thân không tuyến giáp nhưng thực sự là bệnh nhân tuyến giáp bình thường. Chẩn đoán dựa trên loại trừ suy giáp. Điều trị hướng đến bệnh cơ bản; thay thế hormone tuyến giáp không được chỉ định.

Viêm tuyến giáp Hashimoto (Viêm tuyến giáp tự miễn; Viêm tuyến giáp Lympho mạn tính)

Viêm tuyến giáp Hashimoto là tình trạng viêm mạn tính tự miễn của tuyến giáp với thâm nhiễm tế bào lympho. Các dấu hiệu phát hiện bệnh bao gồm tuyến giáp to, không đau và các triệu chứng của suy giáp. Chẩn đoán bao gồm việc chứng minh nồng độ kháng thể kháng peroxidase tuyến giáp cao. Thay thế levothyroxine suốt đời thường được yêu cầu cho những bệnh nhân bị suy giáp.

Suy giáp (Phù niêm)

Chứng suy giáp là thiếu hụt hormon tuyến giáp. Các triệu chứng bao gồm không dung nạp lạnh, mệt mỏi và tăng cân. Các dấu hiệu có thể bao gồm vẻ mặt điển hình, giọng nói chậm khàn và da khô. Chẩn đoán là bằng xét nghiệm chức năng tuyến giáp. Quản lý bao gồm quản lý thyroxine.

Viêm tuyến giáp lympho bào thầm lặng.

Viêm tuyến giáp lympho bào thầm lặng là một chứng rối loạn tự phục hồi, diễn biến bán cấp xảy ra phổ biến nhất ở phụ nữ trong thời kỳ hậu sản. Các triệu chứng ban đầu là do cường giáp, sau đó là suy giáp và sau đó là thường hồi phục đến trạng thái bình giáp. Điều trị pha cường giáp bằng thuốc chẹn beta giao cảm. Nếu chứng suy giáp là vĩnh viễn, cần phải bổ sung thyroxine suốt đời.

Viêm tuyến giáp bán cấp (viêm tuyến giáp de Quervain, viêm tuyến giáp tế bào khổng lồ, viêm tuyến giáp u hạt)

Viêm giáp tuyến bán cấp là một tình trạng viêm cấp tính của tuyến giáp có thể gây ra do vi-rút. Các triệu chứng bao gồm sốt và đau tuyến giáp. Cường giáp ban đầu là phổ biến, đôi khi theo sau bởi một giai đoạn suy giáp thoáng qua. Chẩn đoán bằng lâm sàng và xét nghiệm chức năng tuyến giáp. Điều trị là với liều cao NSAID hoặc bằng corticosteroid. Bệnh thường khỏi tự nhiên trong vòng vài tháng.
Subscribe to Trang chủ