Cường giáp (Nhiễm độc giáp)

Cường giáp được đặc trưng bởi tăng chuyển hóa và tăng nồng độ các hormone giáp tự do. Các triệu chứng bao gồm đánh trống ngực, mệt mỏi, giảm cân, không chịu được nhiệt, lo lắng và run. Chẩn đoán bằng lâm sàng và xét nghiệm chức năng tuyến giáp. Điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân.

Ung thư phổi ác tính (Ung thư phổi)

Ung thư phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư trên toàn thế giới. Khoảng 85% trường hợp có liên quan đến hút thuốc lá. Các triệu chứng có thể bao gồm ho, cảm giác khó chịu ở ngực hoặc đau ngực, sụt cân và ít phổ biến hơn là ho ra máu; tuy nhiên, nhiều bệnh nhân bị bệnh di căn có hoặc không có bất kỳ triệu chứng lâm sàng nào.

Tăng áp phổi

Tăng áp phổi là tăng áp lực trong tuần hoàn phổi. Nó có nhiều nguyên nhân thứ phát; một số trường hợp là tự phát. Trong tăng áp động mạch phổi, các mạch máu phổi có thể bị co thắt, cắt bớt, mất và/hoặc tắc nghẽn. Tăng áp phổi nặng dẫn đến tình trạng phì đại và suy thất phải.

Thất dụng

Thất dụng là mất khả năng thực hiện các động tác có chủ đích vốn đã biết trước đây, cho dù thể lực cho phép và mong muốn của người bệnh, do một tổn thương não. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, thường bao gồm trắc nghiệm thần kinh tâm lý, cùng với chẩn đoán hình ảnh thần kinh (ví dụ: CT, MRI) để xác định nguyên nhân. Tiên lượng phụ thuộc vào nguyên nhân và mức độ tổn thương và tuổi bệnh nhân. Không có điều trị đặc hiệu, nhưng liệu pháp vật lý và vận động trị liệu có thể cải thiện một cách khiêm tốn hoạt động chức năng và sự an toàn của bệnh nhân.

Thất ngôn

Thất ngôn là rối loạn chức năng ngôn ngữ có thể liên quan đến giảm khả năng hiểu hoặc biểu đạt các từ hoặc ý nghĩa tương đương không bằng lời của từ. Nó là hậu quả của sự rối loạn chức năng của các trung tâm ngôn ngữ ở vỏ não và hạch nền hoặc các đường dẫn truyền trong chất trắng kết nối chúng. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, thường bao gồm trắc nghiệm thần kinh tâm lý, chẩn đoán hình ảnh thần kinh (CT, MRI) để xác định nguyên nhân. Tiên lượng phụ thuộc vào nguyên nhân, mức độ tổn thương và tuổi bệnh nhân. Không có điều trị đặc hiệu, nhưng liệu pháp ngôn ngữ có thể thúc đẩy quá trình hồi phục.

Mất trí nhớ toàn bộ thoáng qua

Mất trí nhớ toàn bộ thoáng qua là quên thuận chiều và ngược chiều, khởi phát đột ngột và kéo dài 24 giờ. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng nhưng bao gồm xét nghiệm và chụp CT, MRI, hoặc cả hai. Mất trí nhớ thường tự hồi phục một cách tự phát nhưng có thể tái diễn. Không có điều trị đặc hiệu, nhưng những bất thường tiềm ẩn cần được điều chỉnh.

Chứng mất trí nhớ

Mất trí nhớ là mất khả năng nhớ lại một phần hoặc toàn bộ những trải nghiệm trong quá khứ hoặc không có khả năng lưu giữ những ký ức mới sau sự kiện gây ra những ký ức đó. Nó có thể là hậu quả của chấn thương sọ não, thoái hóa, bệnh lý chuyển hóa, động kinh hoặc rối loạn tâm lý. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng nhưng thường bao gồm trắc nghiệm thần kinh tâm lý và chẩn đoán hình ảnh thần kinh (ví dụ: CT, MRI). Điều trị theo nguyên nhân

Mất nhận thức

Mất nhận thức là hiện tượng không có khả năng xác định một vật thể bằng cách sử dụng một hoặc nhiều giác quan. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, thường bao gồm các test đánh giá thần kinh tâm lý, đi kèm các phương tiện chận đoán hình ảnh thần kinh (ví dụ: CT, MRI) để xác định nguyên nhân. Tiên lượng phụ thuộc vào bản chất và mức độ tổn thương và tuổi của bệnh nhân. Không có điều trị đặc hiệu, nhưng liệu pháp ngôn ngữ và nghề nghiệp có thể giúp bệnh nhân bù trừ lại phần nào chức năng đã mất.
Subscribe to Trang chủ