Chứng mất trí nhớ

Mất trí nhớ là mất khả năng nhớ lại một phần hoặc toàn bộ những trải nghiệm trong quá khứ hoặc không có khả năng lưu giữ những ký ức mới sau sự kiện gây ra những ký ức đó. Nó có thể là hậu quả của chấn thương sọ não, thoái hóa, bệnh lý chuyển hóa, động kinh hoặc rối loạn tâm lý. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng nhưng thường bao gồm trắc nghiệm thần kinh tâm lý và chẩn đoán hình ảnh thần kinh (ví dụ: CT, MRI). Điều trị theo nguyên nhân

Mất nhận thức

Mất nhận thức là hiện tượng không có khả năng xác định một vật thể bằng cách sử dụng một hoặc nhiều giác quan. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, thường bao gồm các test đánh giá thần kinh tâm lý, đi kèm các phương tiện chận đoán hình ảnh thần kinh (ví dụ: CT, MRI) để xác định nguyên nhân. Tiên lượng phụ thuộc vào bản chất và mức độ tổn thương và tuổi của bệnh nhân. Không có điều trị đặc hiệu, nhưng liệu pháp ngôn ngữ và nghề nghiệp có thể giúp bệnh nhân bù trừ lại phần nào chức năng đã mất.

Tổng quan về chức năng não

Thùy trán, thùy thái dương, thùy đỉnh và thùy chẩm bao phủ gần hết bề mặt não ; thùy đảo nằm ở sâu dưới rãnh Sylvian. Thùy viền (hệ viền) là một khu vực hình chữ C ở sát bờ phía trong của mỗi bán cầu đại não; nó bao gồm một số phần của các thùy lân cận.

Thiếu alpha-1 Antitrypsin

Thiếu alpha-1 antitrypsin là thiếu bẩm sinh hệ thống antiproteinase của phổi, alpha-1 antitrypsin, dẫn đến sự gia tăng sự hủy hoại của mô qua protease và khí phế thũng ở người lớn. Sự tích tụ bất thường alpha-1 antitrypsin ở gan có thể gây ra bệnh gan ở cả trẻ em lẫn người lớn. Nồng độ alpha-1 antitrypsin trong huyết thanh < 11 mmol/L (< 80 mg/dL) xác định chẩn đoán. Điều trị bao gồm cai thuốc lá, giãn phế quản, điều trị sớm nhiễm trùng, và trong một số trường hợp, thay thế alpha-1 antitrypsin. Bệnh gan nặng có thể cần phải ghép gan. Tiên lượng liên quan chủ yếu đến mức độ suy yếu của phổi.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) (Viêm phế quản tắc nghẽn mạn tính, Khí phế thũng)

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) đặc trưng bởi sự giới hạn về luồng khí thở gây ra do đáp ứng viêm do hít phải các chất khí độc hại, thường là khói thuốc lá. Thiếu alpha-1 antitrypsin và phơi nhiễm với các yếu tố nghề nghiệp khác nhau là nguyên nhân ít phổ biến hơn ở người không hút thuốc.

Bệnh đậu mùa (Variola)

Bệnh đậu mùa là một bệnh truyền nhiễm rất dễ lây lan gây ra bởi vi rút đậu mùa, một loại orthopoxvirus. Tỷ lệ tử vong trường hợp là khoảng 30%. Nhiễm trùng tự nhiên đã được tiêu diệt. Mối quan tâm chính cho sự bùng phát là do khủng bố sinh học. Các triệu chứng toàn thân nặng và phát ban mụn mủ đặc trưng. Điều trị nói chung là hỗ trợ và có khả năng bằng thuốc kháng vi rút. Phòng ngừa bằng cách tiêm phòng vắc xin, song do nguy cơ của chính việc tiêm phòng, việc này được thực hiện một cách có chọn lọc.

Bệnh đậu mùa khỉ (Mpox-MPX)

Bệnh đậu mùa khỉ (Mpox-MPX) do vi rút đậu mùa khỉ gây ra, một loại orthopoxvirus có liên quan về mặt cấu trúc với vi rút đậu mùa. Bệnh nhân có biểu hiện phát ban dạng mụn nước hoặc mụn mủ, có thể đau và thường kèm theo sốt, khó chịu và nổi hạch. Chẩn đoán bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR). Điều trị nói chung là hỗ trợ và có khả năng bằng thuốc kháng vi rút. Phòng ngừa liên quan đến tiêm vắc xin.

Tăng sản thượng huyết bẩm sinh gây ra do thiếu hụt 11Beta-Hydroxylase

Sự thiếu hụt 11Beta-hydroxylase (CYP11B1) liên quan đến sai sót trong sản xuất cortisol, với sự tích tụ các tiền chất của mineralocorticoid, dẫn đến tăng natri máu, hạ kali máu, và cao huyết áp và tăng sản xuất androgens thượng thận, dẫn đến hiện tượng nam tính hoá. Chẩn đoán là bằng cách đo cortisol, tiền thân của nó, androgen tuyến thượng thận và đôi khi bằng cách đo 11-deoxycortisol sau khi dùng hormone vỏ thượng thận. Điều trị bằng corticosteroid .
Subscribe to nam giới